[GNVC - LLVH] Khả năng kiểm nghiệm điều chưa xảy ra của văn học
Đề bài: Trong tiểu luận Về
bản chất của nghệ thuật, IU.M.Lotman viết: “Nghệ thuật là kinh nghiệm về những
điều chưa xảy ra. Hay là kinh nghiệm về những cái có thể xảy ra.” (IU.M.Lotman, Kí hiệu học văn hóa, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội, trang 336). Bạn hiểu thế nào về nhận định trên của Lotman? Hình ảnh
“đôi mắt xanh” của Pecola Breedlove ở cuối tiểu thuyết Mắt nào xanh nhất của Toni Morrison nói với chúng ta điều gì về “khả
năng thể nghiệm cái chưa bao giờ trải qua” của văn học?
“Đi
ra, lấy cuộc đời dân làm cuộc đời mình
Cơn
nắng, cơn mưa làm điều suy nghĩ
Một
tiếng chim gù cũng đến nơi rừng lạ để nghe”
(Chế Lan Viên, Nghĩ về nghề, nghĩ về
thơ, nghĩ…)
“Cuộc đời dân” hay “cuộc đời mình”, từ “cơn nắng” cho đến phảng phất “cơn mưa”, rồi “một tiếng chim gù” giữa bao la rộng lớn…Tất cả tưởng chừng bé nhỏ, bình dị nhưng lại trở thành tuyệt tác trong đôi mắt của người nghệ sĩ. Văn chương thỏa lòng “cơn đói tinh thần” bằng hiện thực cuộc sống trên dải lụa ngôn từ mà những “nghệ nhân văn học” dành nhiều tâm huyết mà thêu dệt. Nhưng văn học có phải lúc nào cũng là “người thư kí trung thành của thời đại” như Balzac đã từng nói hay chăng? Trăn trở về điều này, trong tiểu luận Về bản chất của nghệ thuật, IU.M.Lotman viết: “Nghệ thuật là kinh nghiệm về những điều chưa xảy ra. Hay là kinh nghiệm về những cái có thể xảy ra”. Quan điểm ấy cho thấy bản chất của nghệ thuật nói chung, đặc biệt là với văn học ngôn từ nói riêng, để thấy rõ chức năng của nó, đặc biệt là chức năng dự báo. Hình ảnh đôi mắt xanh của nhân vật Pecola Breedlove ở cuối tiểu thuyết Mắt nào xanh nhất của Toni Morrison giúp ta nhận ra “khả năng thể nghiệm cái chưa bao giờ trải qua” của văn học.
Theo Nguyễn Đăng Mạnh: “Nghệ thuật là một
hình thái ý thức xã hội đặc thù, phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ
quan của người nghệ sĩ bằng những hình tượng mang ý nghĩa thẩm mỹ”. Nghệ thuật được
IU.M.Lotman nói đến ở đây có thể hiểu là nghệ thuật ngôn từ. Chất liệu ngôn từ
được văn học sử dụng không phải để tái hiện lại thế giới như nó vốn có mà phải
hướng đến khát vọng nhân sinh.
“Nghệ thuật là kinh nghiệm về những điều
chưa xảy ra”. Nhắc đến “kinh nghiệm” theo nghĩa thông thường, người ta nhớ ngay về những bài học,
những tri thức đã
rút ra từ các
sự kiện trong quá khứ, có tác
động tích cực đến hiện tại và tương lai. “Kinh nghiệm về những điều chưa xảy ra”
là một định nghĩa xuất hiện trong văn chương nghệ thuật, nó cung cấp những trải
nghiệm chưa từng xuất hiện trong thực tế, cho phép người viết
và người tiếp nhận thỏa sức tưởng tượng, kể cả những điều phi thực tế. Tiểu thuyết khoa học viễn tưởng về cuộc
xâm lược của người ngoài hành tinh mang tên Chiến tranh giữa các thế giới
của H.G.Wells – một sự kiện vốn dĩ chưa từng xảy ra trong cuộc sống con người là
một minh chứng.
“Nghệ thuật là kinh nghiệm về những cái có thể
xảy ra”. Vế thứ hai muốn khẳng định về cái “khả năng” của văn học. Khi đứng trước
một thảm họa, một niềm vui nào đó, nhà văn có thể hình dung về những con đường
mới (khác với lịch sử chỉ có một con đường – quá khứ). Văn học lựa chọn khả năng
có thể xảy ra cho nhân vật. Ta bắt gặp hình ảnh thị Nở
nhìn xuống bụng mình và lập tức trong
đầu thị hiện lên "cái
lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng bóng người lại qua."[1]Chẳng phải hình ảnh “lò gạch cũ” đã nhắc
nhở bạn đọc,
rồi sẽ có một Chí Phèo con ra đời, nối nghiệp cha nó, một vòng lặp luẩn quẩn không
lối thoát lai bắt đầu hay sao? Khả năng của văn học nằm ở chỗ đó.
Như vậy, văn học có “khả năng kiểm nghiệm
cái chưa bao giờ trải qua” bởi chức năng dự báo. Nghệ thuật không đơn thuần là sự
sáng tạo thuần túy, mà còn phải hướng đến những con đường, dự báo tương lai cho
một vấn đề cụ thể có liên quan đến cuộc sống con người. Hiện thực
cuộc sống là cái tất nhiên, cái đã xảy ra là dĩ nhiên, còn văn học là cái khả
nhiên. Lí
luận văn học Mác xít trước đây mới chỉ đề cập đến ba chức năng cơ bản của văn học:
nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ, chưa đề cập đến chức năng dự báo bởi một vài lí
do. Cho đến khi tiếp xúc với những tiểu thuyết hiện đại, cả ở trong nước và quốc
tế, cho đến đầu những năm chín mươi của thế kỉ XX thì chức năng dự báo càng được
thể hiện rõ nét nhất.[2]
Chức năng dự báo của văn học ngôn từ được sử dụng trong những hoàn cảnh nhất định, chịu sự chi phối của chất liệu hiện thực và chủ thể sáng tác, khác với lịch sử hay các ngành khoa học khác chỉ nghiên cứu cái tất nhiên hay dĩ nhiên. Nếu thời đại nhà văn sống yên bình và tự do, làm sao viết được những áng văn đấu tranh hay lên tiếng, mở đường hay vạch ra lối thoát? Văn học vì thế hướng đến cái khả nhiên. Mắt nào xanh nhất của Toni Morrison là một tác phẩm như vậy. Không chỉ thực hiện chức năng nhận thức trong phản ánh cuộc sống với nạn phân biệt chủng tộc đã đày đọa con người mà còn dự báo cho tương lai của nhân vật. Hình ảnh “đôi mắt xanh” của cô bé Pecola Breedlove càng thể hiện rõ hơn điều này.
Morrison là một tác giả nổi tiếng người Mỹ nổi bật với các tiểu thuyết kinh điển. Bà từng đạt giải Nobel và Pulitzer. The Bluest Eye (Mắt nào xanh nhất) là tiểu thuyết đầu tay, xuất bản năm 1970 và cũng là một trong số những tác phẩm làm nên thành công của bà. Cuốn sách kể về một cô bé người Mỹ gốc Phi mang tên Pecola Breedlove với niềm tin về một đôi mắt xanh sẽ thay đổi được vận mệnh của bản thân. Biểu tượng về đôi mắt đã để lại những ấn tượng sâu đậm và những dự cảm không lành về số phận Pecola khiến bạn đọc xót thương.
Tác giả Ki Ju Lee từng
nói: “Văn chương sinh ra trong cuộc sống và vỗ về cuộc sống.” Toni
Morrison đã xuất phát từ hiện thực đau đớn để định hướng khả năng cho nhân vật.
Pecola Breedlove được
xây dựng với hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Một cô bé phải chịu đựng nỗi đau và
sự ruồng bỏ khi xã hội xa lánh, gia đình ngược đãi và ghẻ lạnh, phải nghe những
lời cay độc từ chính mẹ của mình, bị bố loạn luân ở tuổi mười một,
khiến em mang thai
– độ tuổi mà lẽ ra
phải sống thật hồn nhiên–
như những người da trắng. Từ nhỏ, Pecola đã phải sống bên ngoài cánh cửa hạnh phúc
bởi những chuẩn mực về sắc đẹp của người da trắng, sự
miệt thị về
làn da đen sẫm, mái
tóc đen và ngoại hình, bị coi là điều xui rủi và bẩn thỉu. Pecola mơ về “đôi mắt xanh”. Em cho rằng
nó sẽ thay
đổi được số phận và em sẽ được sống trong hạnh phúc, sẽ
không còn ai phải thốt ra những lời tổn thương về em: “Nếu nó không sống được
thì phước cho con nhỏ. Chắc là thứ xấu xí nhất từng sống trên đời.”[3] Thử hỏi tự khi nào, những giá trị của
bản thân lại phải chịu sự áp đặt bởi chuẩn mực của những kẻ khác cơ chứ?
Tính khả nhiên của văn học thể hiện ở
chỗ tác giả cho nhân vật của mình con đường vượt lên trên thực tại. Pecola kiếm
tìm sự giúp đỡ từ một ông thầy cúng tên Nhà Thờ Đầu Xà Phòng. Ông ta
lừa em rằng
hắn có thể
ban cho em đôi mắt
xanh như em ao ước. Có lẽ em đã tin, tin rằng bạn bè sẽ không chế giễu em nữa,
thầy cô sẽ để ý đến em, thậm chí chủ tiệm tạp hóa Yacobowski sẽ nhìn em với đôi
mắt khác. Những tưởng hạnh phúc sẽ mỉm
cười với em nhưng thực chất bi
kịch mới lại bắt đầu khi bị rơi vào hoang tưởng không lối thoát.
Việc
Pecola tin vào đôi mắt xanh của mình là một sự rạn nứt tâm lý. Ở cuối tiểu thuyết là đoạn
đối thoại, tuy nhiên
nhân vật đối thoại với Pecola không phải nhân vật sống. Là tưởng
tượng ư? Hay em đang tâm sự với
chính mình?
Đau đớn, tổn thương,
không ai hiểu,
cũng chẳng ai quan tâm, mất kết nối với “đồng loại”. Cuộc đối
thoại trải dài và dường như chỉ xoay quanh hai nhân vật với hình
ảnh đôi mắt như rơi vào triền miên của những tuyệt vọng và trống trải. Không nhận thức được thực tại nữa, không
phân biệt được cuộc đời nữa, cái
ảo tưởng về một đôi mắt xanh là một sự trốn chạy hiện thực
xấu xa.
Đôi mắt xanh, một
biểu tượng xót xa
dự báo về sự tha hóa
và cô lập với những bi kịch đang tìm đến Pecola. Đoạn kết, khi trò
chuyện với
một nhân vật tưởng tượng, em bị ám ảnh bởi độ xanh của đôi mắt. Em
liên tục hỏi những câu đầy
sợ hãi: “Mắt mình xanh hơn mà phải không”, “Xanh hơn mắt
Joanna?”, “Xanh hơn cả mắt Michelena?”[4]...Pecola
tưởng tượng mọi
người sẽ phải ghen tị với đôi mắt em, em nói với người bạn tưởng tượng: “Trời!
Mình không ngờ bạn ganh tị như vậy”[5]. Cái khát khao có được một đôi mắt xanh
nhất của em sao mà xót xa đến thế. Em bị ám ảnh bởi đôi mắt ấy, bị tổn thương bởi
đôi mắt ấy. Thử hỏi, sống trong một xã hội với nạn phân biệt chủng tộc bất công
như thế, lại tổn thương ngay từ trong chính gia đình mình – nơi tưởng chừng sẽ ươm mầm
hạnh phúc và yêu thương,
thì một đứa trẻ như em sao có thể thoát ra được?
Đôi mắt
xanh dự báo khả năng về
tương lai của các chuẩn mực sắc đẹp sẽ còn tiếp tục vùi
dập Pecola nói riêng và những người da màu nói chung. Người thấy
“gớm”, thấy “buồn cười”, “bàng hoàng” hay thậm chí là “háo hức” khi nghe về nỗi
đau của Pecola, thay
vì thấy “tội”, thấy “thương” cho Pecola. Liều thuốc chủng tộc đã tiêm vào cô bé
qua thời gian, ăn sâu vào các tế bào của tiềm
thức và nó đang phát huy tác dụng. Sự ảnh trong nội tại, sự ảo giác trong cơn mê
như một thảm họa làm sụp đổ tinh thần của cô bé. Nó nói
lên khả năng về
những hệ lụy kéo dài của nạn phân biệt chủng tộc và sự áp đặt những giá trị sắc
đẹp của xã hội trong tương lai. Xã hội ấy cứ tồn tại, mặc cho một thực thể sinh
học bị tổn thương nghiêm trọng. Như một vòng lặp không lối thoát, rằng trong xã
hội ấy rồi sẽ có một, rồi nhiều người như Pecola, mãi sống trong sự miệt thị và
khinh ghét, mãi chịu nhiều tổn thương. Chừng nào xã hội ấy còn tồn tại, thì chừng
đó sẽ còn những Pecola ra đời.
Khả năng thể nghiệm của văn học được thể
hiện qua hình ảnh “đôi mắt xanh”. Dẫu không thể chạm vào hay tận mắt chứng kiến
nhưng bạn đọc có thể nhìn thế giới qua đôi mắt ấy, để hiểu và đồng cảm cho nỗi
đau của Pecola, để sống thử và trải nghiệm những bất hạnh trong cuộc đời cô bé.
Biểu tượng
đôi mắt xanh được Toni
Morrison vẽ lên để vạch
trần bộ mặt của cái xã hội tự ban cho những người “da trắng” những đặc ân về cái
đẹp, trong khi những người da màu bị đối xử nhẫn tâm. Tác giả tố cáo nạn phân biệt
chủng tộc đã đẩy người da màu vào những hố sâu của tuyệt vọng, hạn chế quyền tự
do của họ. Bằng một sự mẫn cảm đặc biệt trước những biến động của thời đại, tác
giả như báo trước cái bi kịch tiếp diễn khi xã hội chưa thay đổi, bi kịch về tiêu
chuẩn của cái đẹp vô lí mà những người da màu khát khao theo đuổi. Mắt nào xanh
nhất không đơn thuần là một câu chuyện của một cô bé bất hạnh mà đó là lời cảnh
tỉnh về những hệ lụy của xã hội ấy để lại, là câu chuyện của mọi người. “Đôi mắt
xanh” trở thành một biểu tượng đau đớn và ám ảnh nhất của văn học Mỹ hiện đại.
Belinxky từng quan niệm: “Một tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó.” Thử hỏi, một tác phẩm sao có thể tồn tại được nếu chỉ tái hiện lại cuộc đời? Đó phải là tình yêu, sự mẫn cảm, là sự đấu tranh nội tâm và còn là tài năng của tác giả cất lên vì con người. Bạn đọc rồi sẽ đặt cả trái tim vào Pecola, nhìn thế giới qua đôi mắt em, để thấu hiểu nỗi đau hay thương cảm cho cái cách em đã đối diện với thực tại. Tác giả vẽ ra những trải nghiệm mới, chưa từng có, hoặc có thể có, bạn đọc sẽ thỏa sức tưởng tượng và “sống thử” cuộc đời ấy, để rồi đồng cảm với số phận con người trong những hoàn cảnh đáng thương.
Nhận định của
IU.M.Lotman về bản chất của nghệ thuật là một quan điểm đúng đắn. Qua đó giúp bạn
đọc có cái nhìn toàn diện và hoàn thiện hơn về “khả năng thể nghiệm cái chưa xảy
ra” của văn học. Một tác giả tài năng sẽ không đóng khung tác phẩm của mình
trong cuộc sống mà phải chứa đựng sự vượt thoát, tùy vào sự nhạy bén và mẫn cảm của
tác giả với cuộc đời. Mắt nào xanh nhất của Toni Morrison đã dẫn dắt bạn
đọc đến với một miền đất mới chưa từng trải qua, để từ đó thấu hiểu tâm lí của
một cô bé đáng thương, cũng như số phận của những người da màu đang chịu sự
phân biệt bất công và vô lí. “Đôi mắt xanh” thực sự đã làm trái tim bạn đọc
rung lên nhanh
hơn, nhẹ ướt nơi khóe mắt, dù nó không thực sự xảy ra trong
hiện thực. Văn học vì lẽ đó mà vượt ra khỏi biên giới cuộc đời,
vươn xa hơn nữa tới những cái
khả nhiên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương Lựu (chủ biên), Nguyễn Nghĩa
Trọng, La Khắc Hòa, Lê Lưu Oanh. Lí luận văn học, tập 1 – văn học, nhà văn,
bạn đọc. Nxb Đại học Sư phạm.
2. Trần Đình Sử. Về bản chất của nghệ
thuật Yuri Lotman. Dịch từ tiếng Nga, trong tập Ju.Lotman và trường phái
kí hiệu học Tartu – Matskva, M. Nxb. “Gnozis”, 1994, tr. 432 – 438.
3. IU.M.Lotman. Kí
hiệu học văn hóa. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
4. Toni Morrison. Mắt
nào xanh nhất. Thiên Nga dịch, Nxb Phụ nữ Việt Nam.
5. Lê
Tú Anh. Tạp
chí Nghiên cứu văn học, Số 3/2013, tr.98-109.
6.
Lý luận văn học. NXB Giáo dục, 1993.
Nhận xét
Đăng nhận xét